Tóm tắt: Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết đối với các tranh chấp về kinh doanh thương mại phổ biến và được các bên ưu tiên lựa chọn vì những ưu điểm so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án. Tuy nhiên, phán quyết trọng tài có thể bị hủy bởi Tòa án theo các căn cứ được quy định trong Điều 68 của Luật trọng tài thương mại 2010. Đây cũng là một vấn đề cần được các bên quan tâm khi lựa chọn phương thức này để giải quyết tranh chấp. Bài viết này tóm lược 24 bản án/quyết định của Tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài từ năm 2018 đến nay [1]. Trong đó, đối với mỗi bản án/quyết định, bài viết sẽ tóm tắt căn cứ của bên yêu cầu hủy phán quyết; các căn cứ và lập luận dẫn đến việc hủy phán quyết trọng tài của Tòa án.
Từ khóa: #huy_phan_quyet_trong_tai #huy_phan_quyet #trong_tai_thuong_mai #ban_an #phan_quyet #toa_an #trong_tai_thuong_mai #nguyen_tac_co_ban #hop_phap_hoa_lanh_su #VIAC
[1] Asia Legal chỉ thu thập được các bán án quyết định từ năm 2018 đến nay. Các bản án, quyết định trước đó không thu thập vì việc công bố công khai bản án, quyết định lên trang web của tòa án chỉ được thực hiện kể từ năm 2018.
1.1. Thông tin các bên:
a) Bên yêu cầu: Công ty TNHH Thủ đô II
b) Bên liên quan: Công ty PT VINDOEXIM (Indonesia)
1.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:
a) Bên yêu cầu cho rằng ông Phan Bá Hưng không có Giấy ủy quyền hợp lệ khi ký Hợp đồng kinh tế số 071 ngày 17/11/2003, nên ông Hưng không có đủ tư cách, thẩm quyền để đại diện Công ty PT VINDOEXIM giao kết Hợp đồng kinh tế số 071 và thỏa thuận trọng tài. Do đó, thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
b) Hơn nữa, Công ty PT VINDOEXIM (Indonesia) không có thật trên lãnh thổ Indonesia qua kết quả điều tra của Cơ quan Interpol – Indonesia.
1.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài:
Không có một văn bản pháp lý nào của Công ty PT VINDOEXIM ủy quyền hợp lệ cho ông Phan Bá Hưng được phép ký thỏa thuận trọng tài ở thời điểm ký kết hợp đồng kinh tế ngày 17/11/2003. Vì thế việc ông Hưng thỏa thuận trọng tài là không đúng thẩm quyền nên ông không có quyền thỏa thuận trọng tài với Công ty TNHH Thủ đô II nên việc thỏa thuận trọng tài này là vô hiệu. Bởi vậy không có cơ sở để giữ nguyên quyết định của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, mà cần hủy quyết định này theo khoản 2 điều 10, khoản 2 điều 54, điều 53 Pháp lệnh trọng tài đã quy định.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta846153t1cvn/chi-tiet-ban-an
2.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu:
-
- Công ty cổ phần Tập đoàn F (“Công ty F”);
- Ông Nguyễn Thanh B;
- Ông Nguyễn Tuấn A;
- Bà Hoàng Thị Thu H;
- Bà Nguyễn Thị P.
(sau đây gọi tắt là “Các Bị Đơn”)
b) Người liên quan: Công ty G I A L L C (“Công ty G”)
2.2. Nội dung yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài
a) Nội dung yêu cầu của Công ty F và ông Nguyễn Thanh B:
-
- Các bên không có thỏa thuận trọng tài nên Hội đồng Trọng tài giải quyết tranh chấp đã vi phạm Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại.
- Vụ việc không thuộc thẩm quyền của Trọng tài.
b) Nội dung yêu cầu của ông Nguyễn Tuấn A, bà Hoàng Thị Thu H, bà Nguyễn Thị P:
-
- Ông Tuấn A, Bà H, Bà P chưa nhận được thông báo của VIAC về Đơn khởi kiện cũng như tài liệu liên quan đến vụ kiến do Công ty G nộp. Họ không đảm bảo được quyền thành lập Hội đồng Trọng tài nên Phán quyết Trọng tài đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại.
- Ông Tuấn A, Bà H, Bà P không được biết về việc chỉ định trọng tài của ông V – người đại diện của Công ty F. Các ông, bà trên không được thực hiện quyền của mình trong việc chỉ định trọng tài và thành lập Hội đồng Trọng tài vì vậy làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2.3. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài của Tòa án
Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với các lẽ sau:
Phán quyết của Trọng tài vi phạm quy định tại Điều 5 Luật Trọng tài Thương mại về điểu kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Cụ thể:
a) Công ty G khởi kiện Các Bị Đơn ra VIAC phát sinh từ 01 Giấy nhận nợ của Các Bị Đơn. Theo Giấy nhận nợ này, mọi tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết tại VIAC. Tuy nhiên, Giấy nhận nợ chỉ thể hiện ý chí đơn phương của Các Bị Đơn, không có xác nhận của Công ty G hoặc thông tin cho rằng Công ty G đồng ý với Giấy nhận nợ. Phía Tòa án cho rằng Giấy nhận nợ không thể coi là có sự thỏa thuận giữa các bên và do đó, không có thỏa thuận trọng tài, căn cứ Điều 116 và Điều 385 BLDS 2015.
b) Nội dung trên giấy ghi nợ không đúng hình thức thoả thuận trọng tài theo Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại 2010.
2.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
a) Ông Tuấn A, Bà H, Bà P chưa nhận được thông báo của VIAC về Đơn khởi kiện cũng như tài liệu liên quan đến vụ kiến do Công ty G nộp. Họ không đảm bảo được quyền thành lập Hội đồng Trọng tài nên Phán quyết Trọng tài đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại.
b) Ông Tuấn A, Bà H, Bà P không được biết về việc chỉ định trọng tài của ông V – người đại diện của Công ty F. Các ông, bà trên không được thực hiện quyền của mình trong việc chỉ định trọng tài và thành lập Hội đồng Trọng tài vì vậy làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta846153t1cvn/chi-tiet-ban-an
3.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty Cổ phần WH Việt Nam (“Công ty WH”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Lâm nghiệp PKT (“Công ty PKT”)
3.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Các căn cứ Công ty WH yêu cầu Toà án huỷ phán quyết trọng tài:
a) Phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư” quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại và Quy tắc đạo đức Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam;
b) Hội đồng trọng tài triệu tập phiên họp giải quyết tranh chấp không đúng quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 vi phạm tố tụng, cụ thể Hội đồng Trọng tài đã nhiều lần triệu tập phiên họp và với nhiều lý do đã hoãn phiên họp nhiều lần.
c) Hội đồng trọng tài sử dụng chứng cứ không khách quan có sự thiên vị về nguyên đơn;
d) Phán quyết của trọng tài vi phạm về nội dung và hình thức của phán quyết theo quy định tại Điều 61, Khoản 1, điểm c Luật Trọng tài thương mại 2010, cụ thể là phán quyết không ghi địa chỉ của các trọng tài viên.
e) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên Người yêu cầu không nêu cụ thể vi phạm nguyên tắc cơ bản nào của pháp luật Việt Nam;
f) Thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên, cụ thể là Trọng tài viên vi phạm Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC. Trọng tài viên đã liên lạc riêng với bên bị đơn nhiều lần bằng điện thoại trong quá trình tố tụng trọng tài, ngay trong ngày họp giải quyết đã 5 lần liên lạc.
3.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với lẽ sau:
a) Phán quyết không ghi địa chỉ của các trọng tài viên nên vi phạm Điều 61.1.c Luật Trọng tài thương mại 2010.
b) Trọng tài viên vi phạm Điều 16.2 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC khi liên lạc riêng với bị đơn nhiều lần bằng điện thoại trong quá trình tố tụng.
3.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
a) Phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư” quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại và Quy tắc đạo đức Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam;
b) Hội đồng trọng tài triệu tập phiên họp giải quyết tranh chấp không đúng quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 vi phạm tố tụng, cụ thể Hội đồng Trọng tài đã nhiều lần triệu tập phiên họp và với nhiều lý do đã hoãn phiên họp nhiều lần.
c) Hội đồng trọng tài sử dụng chứng cứ không khách quan có sự thiên vị về nguyên đơn. Do đất là nội dung của tranh chấp nên Toà án không xem xét căn cứ này.
Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên Người yêu cầu không nêu cụ thể vi phạm nguyên tắc cơ bản nào của pháp luật Việt Nam.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta868517t1cvn/chi-tiet-ban-an
4.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Đầu tư HV (“Công ty HV”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Một thành viên M (“Công ty M”)
4.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Công ty HV yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do:
a) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; và
b) Phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, cụ thể là Công ty M chỉ yêu cầu giải quyết vấn đề về tiền đặt cọc nhưng Hội đồng trọng tài lại giải quyết thêm vấn đề về tiền lãi.
4.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Phán quyết trái với nguyên tắc tôn trọng thoả thuận các bên (khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015), Chủ tịch Hội đồng trọng tài tự đưa ra và tự giải quyết khoản tiền lãi trong khi 2 bên không có yêu cầu giải quyết, gây ra tổn thất cho bên tranh chấp. Hội đồng trọng tài giải quyết vượt quá phạm vi của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta319973t1cvn/chi-tiet-ban-an
5.1. Thông tin các bên
a) Bên yêu cầu: Tổng Công ty cổ phần X (“Công ty V”)
b) Bên liên quan: S A & E (“Công ty S”)
5.2. Nội dung yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài
a) Phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: Vi phạm nguyên tắc đối xử công bằng, bình đẳng trong việc giải quyết tranh chấp:
-
- Hội đồng Trọng tài đánh giá chủ quan, phiến diện các tài liệu mà Công ty S nộp tại phiên họp và không cho Công ty V có cơ hội xem xét tài liệu của Công ty S;
- Hội đồng Trọng tài đã nhận định không viện dẫn cũng như sử dụng bất kỳ lời khai nhân chứng nào để lập ra Phán quyết Trọng tài cho thấy Hội đồng Trọng tài đã không xem xét mọi hồ sơ, tài liệu do các bên xuất trình và đánh giá chứng cứ trên cơ sở khách quan, toàn diện, đầy đủ.
- Hội đồng Trọng tài đối xử thiếu công bằng, bình đẳng trong việc chấp nhận yêu cầu gia hạn thời gian bổ sung đơn khởi kiện và tài liệu chứng minh của Công ty S nhưng đối xử thiếu công bằng trong việc xem xét chứng cứ của Công ty V.
b) Hội đồng Trọng tài vi phạm thủ tục tố tụng đối với nghĩa vụ thông báo và xem xét chứng cứ sau phiên họp cuối cùng: Tại phiên họp cuối cùng ngày 25/01/2019, sau khi tuyên bố là phiên họp cuối cùng nhưng Hội đồng Trọng tài lại quyết định cho các bên đệ trình bổ sung tài liệu về chi phí tố tụng (thực chất là tạo điều kiện riêng cho Công ty S).
5.3. Căn cứ hủy phán quyết Trọng tài của Tòa án:
Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với các lẽ sau:
a) Hội đồng Trọng tài đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: vi phạm Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 về nguyên tắc bình đẳng và Điều 4 Luật Trọng tài thương mại về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đồng nghĩa với việc có sự phân biệt đối xử không công bằng với Công ty V. Cụ thể, Hội đồng Trọng tài đã cho Công ty S 04 lần sửa đổi đơn khởi kiện, kể cả trong trường hợp kết thúc phiên họp cuối cùng nhưng lại không ghi nhận các tài liệu do Công ty V xuất trình.
b) Hội đồng Trọng tài đã vi phạm Điều 12 Luật Trọng tài thương mại quy định về việc gửi thông báo và trình tự gửi thông báo.
Cụ thể, đến ngày mở phiên họp là 25/01/2019, Công ty V mới được thông báo về việc Hội đồng Trọng tài đã đồng ý theo yêu cầu của Công ty S cho mời thêm một số nhân chứng để tham gia phiên họp và đưa ra lời khai làm chứng. Công ty V không nhận được thông báo trước đó về việc triệu tập nhân chứng tham gia phiên họp để tự bảo vệ đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty V. Công ty V đã phản đối việc gửi Giấy triệu tập của Hội đồng Trọng tài nhưng không được giải quyết.
c) Phán quyết của Trọng tài vi phạm khoản 4 Điều 25 của Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC. Cụ thể:
-
- Theo khoản 4 Điều 25 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC quy định: “Sau khi kết thúc phiên họp cuối cùng, Hội đồng Trọng tài không có nghĩa vụ xem xét bất kỳ tài liệu hoặc chứng cứ bổ sung nào, trừ khi các bên có thỏa thuận khác”.
- Phiên họp cuối cùng để giải quyết tranh chấp diễn ra vào ngày 25/01/2019. Tuy nhiên, dù chưa có bất kỳ thỏa thuận nào giữa các bên nhưng đến ngày 30/01/2019, Hội đồng Trọng tài lại nhận thông báo và các tài liệu kèm theo của Công ty S đệ trình các tài liệu về toàn bộ chi phí liên quan đến yêu cầu thứ ba của Công ty S.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta319959t1cvn/chi-tiet-ban-an
6.1. Thông tin các bên:
a) Bên yêu cầu: Công ty K
b) Bên liên quan: Công ty TNHH MTV K (nay là Công ty TNHH MTV A – sau đây gọi là “Công ty A”)
6.2. Nội dung yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài:
Công ty K có đơn yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài với các lý do sau:
a) Hội đồng Trọng tài không tôn trọng và bảo vệ quyền dân sự của Công ty K, không tuân theo quy định pháp luật khi xác định việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện của K đối với các khoản tiền theo các yêu cầu thanh toán tạm thời (IPC) từ số 33 đến số 38;
b) Hội đồng Trọng tài không tuân theo các quy định của pháp luật khi áp dụng không thống nhất các quy định pháp luật trong việc xác định thời hiệu áp dụng đối với các yêu cầu kiện lại của Công ty A về chi phí xây dựng bổ sung và bồi thường thiệt hại định trước;
c) Hội đồng Trọng tài không khách quan và không tuân theo các quy định của pháp luật khi sử dụng chi phí xây dựng ước tính để quyết định số tiền bồi thường theo yêu cầu kiện lại của Công ty A mà không xác định chi phí thực tế để hoàn thiện khách sạn;
d) Hội đồng Trọng tài đã không xem xét một cách khách quan yêu cầu của Công ty K về phí chậm trả.;
6.3. Căn cứ hủy phán quyết Trọng tài của Tòa án:
HĐTT có sự không công bằng trong quá trình giải quyết tranh chấp, do đó, vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN, căn cứ tại Điều 3 BLDS 2015 quy định về nguyên tắc bình đẳng và Điều 4 LTTTM 2010 quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Công ty K. Cụ thể:
a) Hội đồng Trọng tài bác yêu cầu của Công ty K đối với các khoản nợ của Công ty A từ IPC số 34 đến số 38 và chỉ chấp nhận IPC số 33 là không phù hợp. Mặc dù đây là phần nội dung của vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết nhưng đã chứng minh việc Hội đồng Trọng tài có khách quan hay không khi giải quyết vụ tranh chấp.
b) Theo quy định trong hợp đồng, trong trường hợp Công ty K không hoàn thành công trình khi đến ngày hoàn thành thì Công ty K mới vi phạm mục 9.2.1 và lúc này Công ty K mới phải bồi thường thiệt hại định trước do chậm trễ. Hội đồng trọng tài chấp nhận yêu cầu kiện lại của Công ty A về chi phí xây dựng bổ sung là không phù hợp với bản chất vụ việc và sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng, trong khi đó yêu cầu khởi kiện của Công ty K đối với các IPC đã được Công ty A phê duyệt lại không được Hội đồng trọng tài chấp nhận là không hợp lý.Trong vụ việc này Hội đồng trọng tài đã có sự phân biệt đối xử không công bằng với Công ty K.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta869657t1cvn/chi-tiet-ban-an
7.1 Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển NK (“Công ty NK”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Một thành viên M (“Công ty M”)
7.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Công ty NK đã yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài theo Điều 68 Luật Trọng tài thương mại, căn cứ vào những điểm sau:
a) Thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không được ký bởi người có thẩm quyền của Công ty NK;
b) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: Không thừa nhận các quy định của pháp luật chuyên ngành; Không xem xét lỗi vi phạm của Công ty M làm dẫn đến Công ty NK không thể thực hiện hợp đồng; Buộc Công ty NK mở Chứng thư bảo lãnh nhưng không buộc Công ty M cung cấp các hồ sơ tài liệu để Công ty NK thực hiện thử tục mở chứng thư.
c) Hội đồng trọng tài ban hành quyết định vượt quá phạm vi khởi kiện: Đơn khởi kiện chỉ yêu cầu Công ty NK chuẩn bị thư bảo lãnh với tổng số tiền 22 tỷ đồng nhưng Hội đồng trọng tài lại yêu cầu Công ty M trả thêm tiền lãi.
7.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Theo quy định tại Điều 18.2 Luật Trọng tài thương mại 2010, Toà án xác định thoả thuận trọng tài được xác định tại Hợp đồng thuê nhà và văn bản thoả thuận chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà thuộc trường hợp thoả thuận Trọng tài vô hiệu:
a) Nội dung giấy ủy quyền không thể hiện ủy quyền cho ông S ký hợp đồng với Công ty Mc. Như vậy việc ông Nguyễn Thanh S với tư cách là đại diện theo ủy quyền của Công ty NK ký Hợp đồng hợp thuê nhà lập ngày 22/12/2015 với Công ty Mc và Văn bản thỏa chuyển nhượng hợp đồng thuê gi Công ty Mc và Công ty M lập ngày 18/3/2016 là thuộc trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền của người có thẩm quyền theo quy định pháp luật dân sự. Do vậy thỏa thuận trọng tài mà ông Nguyễn Thanh S xác lập tại Điều 18 của Hợp đồng thuê nhà lập ngày 22/12/2015 giữa Công ty NK và Công ty Mc là thỏa thuận không có ủy quyền của người có thẩm quyền. Điều này đồng nghĩa là không có thỏa thuận trọng tài giữa Công ty NK và Công ty M.
b) Không có cơ sở để cho rằng người có thẩm quyền của Công ty NK biết và không phản đối thỏa thuận trọng tài để xác nhận tính hợp lệ của thỏa thuận trọng tài do: Công ty NK đã thể hiện sự phản đối đối với việc người đại diện không có ủy quyền xác lập thỏa thuận trọng tài tại Bản tự bảo vệ và Biên bản thỏa thuận tranh chấp trong quá trình tố tụng trọng tài.
7.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác bỏ
Quyết định chỉ tập trung vào vấn đề thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không được xác lập bởi người có thẩm quyền của Công ty NK. Ngoài ra, Tòa án không xét đến các lý do khác mà Người yêu cầu đưa ra, bao gồm:
a) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: Không thừa nhận các quy định của pháp luật chuyên ngành; Không xem xét lỗi vi phạm của Công ty M làm dẫn đến Công ty NK không thể thực hiện hợp đồng; Buộc Công ty NK mở Chứng thư bảo lãnh nhưng không buộc Công ty M cung cấp các hồ sơ tài liệu để Công ty NK thực hiện thử tục mở chứng thư.
b) Hội đồng trọng tài ban hành quyết định vượt quá phạm vi khởi kiện: Đơn khởi kiện chỉ yêu cầu Công ty NK chuẩn bị thư bảo lãnh với tổng số tiền 22 tỷ đồng nhưng Hội đồng trọng tài lại yêu cầu Công ty M trả thêm tiền lãi.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta475398t1cvn/chi-tiet-ban-an
8.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Người yêu cầu: Công ty TNHH C
b) Bên liên quan: Công ty TNHH X.
8.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết
a) Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố H không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp do các bên chưa tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp (thủ tục bắt buộc theo thỏa thuận giữa các bên trước khi khởi kiện). Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố H không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp do các bên không thỏa thuận lại tổ chức trọng tài để chọn Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố H trước khi khởi kiện bởi vì tổ chức trọng tài mà các bên lựa chọn theo Hợp đồng đã bị giải thể mà không có tổ chức kế thừa nhưng Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố H vẫn coi thỏa thuận này là thỏa thuận có thể thực hiện được để thụ lý giải quyết.
b) Hội đồng trọng tài đã vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng khi không xem xét phản đối thẩm quyền của bị đơn.
c) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam.
8.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết
a) Trung tâm trọng tài mà các bên lựa chọn (Trọng tài kinh tế thành phố H) đã chấm dứt hoạt động. Căn cứ theo quy định tại Khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Công ty T và Công ty N phải có nghĩa vụ thỏa thuận lại tổ chức trọng tài giải quyết Vụ tranh chấp, nếu không thỏa thuận được thì Nguyên đơn mới có quyền chọn tổ chức trọng tài giải quyết Vụ tranh chấp khi khởi kiện. Tuy nhiên theo hồ sơ thể hiện các bên xác nhận chưa thỏa thuận lại tổ chức trọng tài.
b) Công ty N đã gửi Văn bản phản đối thẩm quyền giải quyết của Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố H nhưng Hội đồng trọng tài đã không mở phiên họp để xem xét việc phản đối này. Trong suốt quá trình giải quyết vụ việc tại Trọng tài, phía Công ty N cũng đã nhiều lần phản đối thẩm quyền trọng tài nhưng cũng không được giải quyết. Vì vậy, Hội đồng trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ tranh chấp, căn cứ Điều 68 Luật Trọng tài thương mại và điểm b Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, hủy phán quyết trọng tài.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/3ta604557t1cvn
9.1. Thông tin các bên:
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH SSG (“Công ty SSY”)
b) Người liên quan: Công ty TNHH VL (“Công ty VL”)
9.2. Nội dung yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài:
a) Giấy triệu tập tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp do Thư ký của VIAC ký là vi phạm Quy tắc tố tụng trọng tài và Luật Trọng tài thương mại vì Thư ký không có thẩm quyền triệu tập các bên tranh chấp;
b) Thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng là vô hiệu do người đại diện phía Công ty SSY ký hợp đồng không phải là đại diện theo pháp luật của công ty.
9.3. Căn cứ hủy phán quyết Trọng tài của Tòa án:
Phán quyết của Trọng tài thuộc trường hợp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, là một trong các trường hợp phán quyết Trọng tài bị hủy theo quy định tại điểm a) khoản 2 Điều 68 của Luật Trọng tài Thương mại. Cụ thể:
a) Nội dung các văn bản không thể hiện người đại diện theo pháp luật của Công ty SSY đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng đã ký giữa các bên, tức là không có căn cứ để xác định thỏa thuận trọng tài đã được xác lập dưới hình thức văn bản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại.
b) Người đại diện Công ty SSY ký hợp đồng giữa các bên trên thực tế không phải là người đại diện theo pháp luật và cũng không phải là Tổng giám đốc của công ty này tại thời điểm các bên ký hợp đồng. Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 18 của Luật Trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng tài này vô hiệu, tức là không có thỏa thuận trọng tài được xác lập một cách hợp pháp.
9.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác:
Giấy triệu tập tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp do Thư ký của VIAC ký là vi phạm Quy tắc tố tụng trọng tài và Luật Trọng tài thương mại vì Thư ký không có thẩm quyền triệu tập các bên tranh chấp.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta477440t1cvn/chi-tiet-ban-an
10.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH LP
b) Bên liên quan: Tập đoàn CK
10.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:
a) Phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
b) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hoặc thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên.
10.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trong tài:
a) Phán quyết về yêu cầu của Nguyên đơn đối với Bị đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của HĐTT, không có thoả thuận trọng tài theo Điều 68.2.a,c Luật TTTM. Bởi vì, thỏa thuận trọng tài giải quyết bất kỳ tranh chấp phát sinh theo thỏa thuận chỉ trong phạm vi 5 nội dung mà Nguyên đơn và Bị đơn đã nêu tại Điều 1 của thỏa thuận, trong khi đó Hội đồng trọng tài ngoài việc giải quyết yêu cầu của Bị đơn đối với Nguyên đơn thì Hội đồng trọng tài còn giải quyết cả phần yêu cầu của Nguyên đơn đối với Bị đơn về những chi phí khác; chi phí tổn thất trong kinh doanh do việc bắt giữ tàu mà các nội dung này không có thỏa thuận giải quyết tại trọng tài khi có tranh chấp.
b) Trong quá trình giải quyết tại trọng tài, Bị đơn đã phản đối rằng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn đối với Bị đơn. Tuy nhiên Hội đồng trọng tài vẫn xác định có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn đối với Bị đơn, là không phù hợp với thỏa thuận của hai bên.
10.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
a) Người yêu cầu nêu căn cứ rằng: phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Hai bên đã đồng ý lựa chọn Quy tắc của Hiệp hội Luật sư Quốc tế về đánh giá chứng cứ trong trọng tài Quốc tế năm 2010 (Quy tắc IBA) khi Quy tắc tố tụng của QT và Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 không quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, phán quyết trọng tài không áp dụng quy tắc IBA mà chỉ áp dụng pháp luật Việt Nam và quy tắc tố tụng của VIAC để giải quyết tranh chấp. Tòa án bác căn cứ này vì cho rằng ý kiến đề nghị của Bị đơn đối với Hội đồng trọng tài về việc áp dụng quy tắc IBA chỉ là “có thể” chứ chưa khẳng định nên không hình thành một thỏa thuận mới giữa nguyên đơn và bị đơn về lựa chọn quy tắc IBA như Bị đơn trình bày.
b) Người yêu cầu đưa ra căn cứ rằng phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam với lý do rằng Trọng tài chỉ xem xét chứng cứ từ một phía và không xem xét chứng cứ từ bên còn lại, hoặc không xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ – nguyên tắc khách quan, bình đẳng sẽ bị vi phạm. Tòa án bác căn cứ này bởi vì Tòa án cho rằng lý do của Bị đơn nêu trên liên quan đến nội dung giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài; theo quy định tại Khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại thì Tòa án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Vì vậy, lý do nêu trên của Bị đơn để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là không có căn cứ để chấp nhận.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta428188t1cvn/chi-tiet-ban-an
11.1. Thông tin các bên
a) Bên yêu cầu: Công ty Cổ phần A (viết tắt là: CPA)
b) Bên liên quan: Viện thiết kế H (viết tắt là “HC”), và Công ty TNHH B (viết tắt là “CTB”) (Sau đây cả hai công ty gọi tắt là Tổ hợp nhà thầu, viết tắt: THNT).
11.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết
a) Hội đồng trọng tài đã thực hiện thủ tục trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên;
b) Hội đồng trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài đã được quy định tại Luật trọng tài thương mại 2010;
c) Phán quyết của Hội đồng trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
11.3. Căn cứ mà tòa dựa vào để hủy phán quyết:
a) Tòa án xác định theo thỏa thuận của các bên thì tranh chấp Trọng tài trong trường họp này phải được giải quyết tại Hà Nội. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài chuyển các phiên họp của Trọng tài ra nước ngoài (tại Singapore) là không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, ảnh hưởng đến điều kiện tham gia phiên họp của Công ty VHS là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng Trọng tài.
b) Trong quá trình tố tụng trọng tài, bị đơn đã nộp nhiều tài liệu chứng cứ và ý kiến tự bảo vệ, nhưng Hội đồng Trọng tài không “căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có” theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và đoạn 2, khoản 1, Điều 25 Quy tắc Tố tụng Trọng tài TTTTV năm 2012 mà tham chiếu Quy tắc IBA để hạn chế xem xét những tài liệu chứng cứ mà bị đơn đã giao nộp trong quá trình tố tụng là ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.
c) Về giám định thiệt hại: hai bên không thống nhất về thiệt hại, nhưng Hội đồng Trọng tài không trưng cầu giám định thiệt hại, mà căn cứ vào ý kiến của chuyên gia George T6 do nguyên đơn cung cấp là chưa đúng theo khoản 3 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta589160t1cvn/chi-tiet-ban-an
12.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH Tư vấn Quản lý A.I.C (“Công ty AIC”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Meito Việt Nam (“Công ty Meito”)
12.2. Nội dung và căn cứ để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:
a) Việc bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài, thành lập Hội đồng trọng tài là trái quy định pháp luật. Cụ thể, đã hết hạn 15 ngày kể từ ngày các trọng tài viên được chọn mà không bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì trường hợp này quyền xác định Chủ tịch Hội đồng trọng tài do Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định. Nhưng thực tế hai trọng tài viên lại vẫn bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài là không đúng thẩm quyền theo quy định.
b) Hội đồng trọng tài đã không tiến hành xác minh sự việc (xác minh liên quan đến một bên thứ ba là Công ty Toda) theo yêu cầu của Công ty A.I.C để làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan đến vụ tranh chấp.
c) Hội đồng trọng tài đã không tuân thủ quy định pháp luật khi áp dụng luật một cách tùy tiện, vi phạm khoản 2 Điều 4 nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là căn cứ để hủy phán quyết trọng tài theo điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010. Cụ thể, Hội đồng trọng tài đã áp dụng sai khoản 3 Điều 6 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP về quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng.
12.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
a) Việc bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài, thành lập Hội đồng trọng tài là trái quy định pháp luật. Cụ thể, đã hết hạn 15 ngày kể từ ngày các trọng tài viên được chọn mà không bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì trường hợp này quyền xác định Chủ tịch Hội đồng trọng tài do Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định. Nhưng thực tế hai trọng tài viên lại vẫn bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài là không đúng thẩm quyền theo quy định.
b) Về vấn đề mất quyền phản đối theo quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại 2010: Công ty AIC không mất quyền phản đối bởi vì Công ty A.I.C vì không có chứng cứ xác định Công ty AIC đã biết việc vi phạm khi bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Vì vậy Công ty A.I.C không mất quyền phản đối theo Điều 13 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
12.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác:
a) Việc không tiến hành xác minh sự việc (xác minh liên quan đến một bên thứ ba là Công ty Toda) là quyền của hội đồng trọng tài, tòa án không có thẩm quyền xem xét lại nội dung của phán quyết trọng tài.
b) Đối với việc viện dẫn sai điều luật khoản 3 Điều 6 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP thay vì khoản 3 Điều 15 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP là do nhầm lẫn về mặt đánh máy, không ảnh hưởng đến Phán quyết trọng tài.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta867887t1cvn/chi-tiet-ban-an
13.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH BVĐ (“Công ty BVĐ”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm N (“Công ty N”)
13.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Công ty BVĐ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do:
a) Trái với nguyên tắc về áp dụng văn bản pháp luật; và
b) Trái với nguyên tắc về lẽ công bằng trong pháp luật Việt Nam.
13.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Sau khi xem xét, Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với lẽ sau:
a) Phán quyết của Hội đồng trọng tài không ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành là Luật kinh doanh bảo hiểm để giải quyết tranh chấp là vi phạm Điều 68.2.đ Luật Trọng tài thương mại.
b) Hội đồng trọng tài thuộc TRACENT đã tự chỉ định VIA là đơn vị giám định độc lập sau đó lại không thừa nhận kết luận giám định của VIA là không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta521364t1cvn/chi-tiet-ban-an
14.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty B
b) Bên liên quan: Công ty NC
14.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
a) Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam không có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp liên quan chào bán cổ phần riêng lẻ. Trọng tài thương mại nói chung không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty cổ phần chưa phải là công ty đại chúng.
b) Thủ tục tố tụng trọng tài trái với quy định của Luật Trọng tài thương mại. Hội đồng Trọng tài đã không giải thích Phán quyết Trọng tài sau khi Công ty B gửi đơn yêu cầu giải thích Phán quyết Trọng tài.
c) Phán quyết của Hội đồng Trọng tài vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Hội đồng Trọng tài đã không đánh giá toàn bộ các tài liệu chứng cứ mà Công ty B đã nộp cho Hội đồng Trọng tài.
d) Hội đồng Trọng tài không thu thập các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Công ty B. Thu thập chứng cứ là thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, nên Hội đồng Trọng tài có nghĩa vụ phải thực hiện.
14.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
a) Việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ dẫn tới phán quyết của HĐTT chưa đảm bảo sự vô tư, khách quan nên vi phạm Điều 4.2 và Điều 4.3 Luật TTTM. Cụ thể, Nhưng Hội đồng trọng tài không thu thập những tài liệu, chứng cứ theo đề nghị của Công ty B với lý do Công ty B không nêu rõ cụ thể những tài liệu, chứng cứ nào là chưa thỏa đáng.
b) Phán quyết vi phạm Điều 61.1.đ về nội dung, hình thức và hiệu lực của phán quyết. Hội đồng Trọng tài mới chỉ diễn giải và lập luận mà không viện dẫn bất kỳ một căn cứ nào, một điều luật nào, hay một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, rồi quyết định không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của Công ty B và buộc Công ty B phải chịu phí trọng tài là không tôn trọng sự thỏa thuận của Công ty B với Công ty NC, nên đã vi phạm điểm đ khoản 1 Điều 61 Luật Trọng tài thương mại quy định về nội dung, hình thức và hiệu lực của Phán quyết Trọng tài: “Căn cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thỏa thuận không cần nêu căn cứ trong phán quyết”.
14.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
Tòa án bác căn cứ của Người yêu cầu rằng Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam không có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp liên quan chào bán cổ phần riêng lẻ bởi vì Tòa án xác định rằng tranh chấp giữa Công ty B với Công ty NC phát sinh từ hoạt động đầu tư – mua, bán cổ phần riêng lẻ, đều nhằm mục đích lợi nhuận nên Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ kiện là đúng thẩm quyền.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta867923t1cvn/chi-tiet-ban-an
15.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty Cổ phần M (“Công ty M”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH V (“Công ty V”)
15.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Công ty M yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài TRACENT với lý do: Phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng trọng tài vì nội dung tranh chấp mà Hội đồng trọng tài TRACENT giải quyết đã được VIAC giải quyết trong một phán quyết trọng tài trước đó. Vì vậy, TRACENT không có thẩm quyền giải quyết lại nội dung mà VIAC đã nhận định và giải quyết.
15.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Các bên không thoả thuận được hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài cụ thể, do đó, công ty M khởi kiện công ty V và chọn trọng tài VIAC để giải quyết là phù hợp với quy định tại Điều 43.5 Luật Trọng tài thương mại. Các bên không thoả thuận về việc tranh chấp liên quan đến hợp đồng số 7 do TRACENT giải quyết. Công ty M phản đối thẩm quyền của TRACENT, do đã được VIAC thụ lý trước đó. TRACENT không có thẩm quyền giải quyết lại những nội dung mà VIAC đã nhận định. Công ty M yêu cầu huỷ phán quyết của TRACENT là phù hợp theo quy định Điều 68.2.a,c Luật Trọng tài thương mại.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta854883t1cvn/chi-tiet-ban-an
16.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH Một thành viên Thương mại TN (“Công ty TN”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: V International Trading PTE., Ltd. (V) (“Công ty V”)
16.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Công ty TN yêu cầu Toà huỷ phán quyết trọng tài vì cho rằng phán quyết trọng tài:
a) Phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể liên quan đến lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp;
b) Hội đồng trọng tài căn cứ vào chứng cứ giả mạo do Công ty V cung cấp để làm căn cứ giải quyết vụ kiện.
16.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Sau khi xem xét, Toà án cho rằng, có cơ sở xác định việc V nộp chứng cứ giả mạo, HĐTT căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đó để ban hành Phán quyết đã làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết.
16.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
Toà án bác căn cứ của Người yêu cầu cho rằng phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể liên quan đến lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta869459t1cvn/chi-tiet-ban-an
17.1. Thông tin các bên:
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH Chunghwa Telecom Việt Nam (“Chunghwa”);
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Tai Seng Bavet Sez (“Tai Seng”).
17.2. Nội dung yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:
a) Giấy ủy quyền ngày 15/06/2018 của Tai Seng Seng cho ông Phạm Đức Toàn tham gia tố tụng trọng tài tại VIAC không được hợp pháp hoá lãnh sự, vì vậy, giấy uỷ quyền này không đúng với quy định của pháp luật Việt Nam về việc Hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu nước ngoài căn cứ Nghị định số 111/2011/NĐ-CP.
b) Điều 22 Hợp đồng số HCMR–2016-008 ngày 25/09/2016 giữa Chunghwa và Tai Seng có thỏa thuận rằng mọi tranh chấp phát sinh sẽ phải được hai bên tiến hành thỏa thuận trước để giải quyết ổn thỏa. Nếu không đạt được thỏa thuận thì có thể nhờ các đơn vị có liên quan của Việt Nam hòa giải trước, nếu hòa giải không được thì sẽ nhờ cơ quan trọng tài của Việt Nam, Campuchia hoặc bên thứ ba tiến hành phân xử.
Trọng tài viên và Hội đồng Trọng tài của VIAC đã không tôn trọng thỏa thuận này khi các bên chưa tiến hành hòa giải nhưng đã tiến hành thụ lý giải quyết tranh chấp.
17.3. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài của Tòa án
Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với các lẽ sau:
a) Phán quyết của Trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam căn cứ khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 2, khoản 2 Điều 4 và Điều 9 Nghị định 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011. Cụ thể:
-
- Giấy ủy quyền ngày 15/06/2018 của Tai Send cho ông Phạm Đức Toàn tham gia tố tụng trọng tài tại VIAC chưa được cơ quan có thẩm quyền của pháp luật Việt Nam chứng nhận con dấu của Tai Seng cũng như chứng nhận chữ ký ông Ly Hongsinh – người đại diện pháp luật của Tai Seng.
- Giấy ủy quyền nêu trên không thuộc các tài liệu được miễn hợp pháp hóa lãnh sự.
b) Phán quyết của Trọng tài vi phạm khoản 5 Điều 43 Luật Trọng tài Thương mại. Cụ thể:
Thỏa thuận trọng tài tại Hợp đồng số HCMR-2016-008 giữa Tai Seng và Chunghwa không chỉ rõ hình thức Trọng tài và không xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, khi các Bên chưa thỏa thuận lại về hình thức trọng tài và tổ chức trọng tài mà Tai Seng đã tiến hành khởi kiện Chunghwa ra VIAC và VIAC thụ lý giải quyết là không đúng.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta833108t1cvn/chi-tiet-ban-an
18.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty Cổ phần Tập đoàn TG, Ông Lê CM – bà Nguyễn TN
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần Dịch vụ sức khỏe HM
18.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Bên yêu cầu yêu cầu Toà án huỷ phán quyết trọng tài vì cho rằng phán quyết của Hội đồng trọng tài trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể là trái với nguyên tắc tự do thoả thuận, bình đẳng.
18.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với lẽ sau:
a) Hợp đồng vay và các bản thoả thuận ghi nhớ có liên quan mật thiết với nhau và không thể tách rời để xem xét một cách riêng lẻ. HĐTT cho rằng mình không có thẩm quyền giải quyết và HĐTT chỉ giải quyết hợp đồng vay mà không xem xét đến bản thoả thuận ghi nhớ.
b) Phán quyết đã vi phạm nguyên tắc cơ bản tại Điều 10 Luật thương mại 2005 và Điều 3.1. BLDS 2015 khi HĐTT không xem xét toàn diện bản chất vụ việc, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên.
Các Hợp đồng vay và các Bản thỏa thuận ghi nhớ có liên quan mật thiết với nhau và không thể tách rời để xem xét một cách riêng lẻ. nhưng Hội đồng Trọng tài lại chỉ giải quyết các hợp đồng vay, không xem xét đến các bản thỏa thuận ghi nhớ sẽ không thể xem xét một cách toàn diện bản chất của vụ việc, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các bên ở giai đoạn tiếp theo và thậm chí có thể phá vỡ toàn bộ các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ mà các Bên đã ký kết, bao gồm: Hợp đồng mua bán cổ phần, thỏa thuận cổ đông.
Phán quyết nói trên đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản quy định tại Điều 10 Luật Thương mại 2005 và Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền bình đẳng giữa các bên khi tham gia hoạt động kinh tế.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta833008t1cvn/chi-tiet-ban-an
19.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH A
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần XL và VTXD B
19.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Căn cứ của Người yêu cầu căn cứ để huỷ phán quyết trọng tài:
a) Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp khi đã hết thời hiệu khởi kiện;
b) Vượt quá phạm vi thẩm quyền xét xử của Hội Đồng Trọng Tài;
c) Hội đồng trọng tài đã sử dụng tài liệu không có giá trị để làm chứng cứ đưa ra kết luận trong phán quyết;
d) Hội đồng trọng tài Vi phạm nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên trong quá trình xét xử và Vi phạm nguyên tắc công bằng, tạo điều kiện cho các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 khi không đưa ra các giải thích đầy đủ về các quyền của Công ty A, dẫn đến Công ty A không được đảm bảo các quyền của mình theo luật định trong phán quyết của Trọng tài. Do đó phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt nam ,vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại.
19.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Toà án quyết định huỷ phán quyết trọng tài với lẽ sau:
Công ty B nộp đơn khởi kiện công ty A tại TRACENT đã hết thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Hội đồng trọng tài chấp nhận lời trình bày của CÔNG TY B cho rằng dù thời hiệu khởi kiện tại Trọng tài là 2 năm thì vụ kiện vẫn còn thời hiệu do thời gian CÔNG TY B khởi kiện Công ty A tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt không tính vào thời hiệu khởi kiện do đây là trở ngại khách quan là không có cơ sở vì việc CÔNG TY B khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt không được coi là thời gian không tính vào thời hiệu theo quy định của luật tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015.
19.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
a) Vượt quá phạm vi thẩm quyền xét xử của Hội Đồng Trọng Tài. Nội dung này thuộc thuộc nội dung vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà Hội đồng trọng tài đã xem xét giải quyết. Toà án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết.
b) Hội đồng trọng tài đã sử dụng tài liệu không có giá trị để làm chứng cứ đưa ra kết luận trong phán quyết. Công ty A không cung cấp được chứng cứ chứng minh chứng cứ giả mạo mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết. Toà án không có cơ sở để chấp nhận lý do này.
c) Hội đồng trọng tài Vi phạm nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên trong quá trình xét xử và Vi phạm nguyên tắc công bằng, tạo điều kiện cho các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 khi không đưa ra các giải thích đầy đủ về các quyền của Công ty A, dẫn đến Công ty A không được đảm bảo các quyền của mình theo luật định trong phán quyết của Trọng tài. Do đó phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt nam ,vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại. Toà án nhận thấy nội dung này thuộc nội dung giải quyết tranh chấp nên không thuộc phạm vi xét xử của Toà án khi xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết của Công ty A.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta833313t1cvn/chi-tiet-ban-an
20.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH du lịch VH, Công ty Cổ phần Tập đoàn HA
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH AR
20.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Các căn cứ mà Bên yêu cầu yêu cầu Toà án huỷ phán quyết trọng tài:
a) Hội đồng trọng tài vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 5 và Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010, cụ thể xác định Công ty cổ phần Tập đoàn HA là bị đơn của vụ kiện trong khi Công ty cổ phần Tập đoàn HA không có thoả thuận trọng tài với Công ty TNHH AR;
b) Trọng tài viên không có bằng cấp về thiết kế và không có kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế.
c) Trung tâm trọng tài đã dùng ngôn ngừ tiếng Anh trong phiên họp là trái với thoả thuận của các bên trong Hợp Đồng là sử dụng tiếng Việt trong thủ tục trọng tài.
20.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Các bên thoả thuận trong hợp đồng ngôn ngữ sử dụng trong phiên họp là tiếng Anh hoặc/và tiếng Việt. Điều 9.3 của Hợp đồng các bên thỏa thuận trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì ngôn ngữ trọng tài là tiếng Anh hoặc/và tiếng Việt. Như vậy, các bên thỏa thuận ngôn ngữ trọng tài là tiếng Anh hoặc /và tiếng Việt được hiểu là cả hai ngôn ngữ. Trọng tài viên đã quyết định sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ tố tụng trọng tài bất chấp sự phản đối của Công ty VH tại Bản tự bảo vệ,điều này chưa đảm bảo tính công bằng, tự nguyện của các bên trong quá trình giải quyết, vi phạm thủ tục trọng tài.
20.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác
a) Hội đồng trọng tài vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 5 và Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010, cụ thể xác định Công ty cổ phần Tập đoàn HA là bị đơn của vụ kiện trong khi Công ty cổ phần Tập đoàn HA không có thoả thuận trọng tài với Công ty TNHH AR. Tuy nhiên, trong thực tế Công ty HA đã gửi thông báo cho Công ty TNHH AR về nội dung của Hợp đồng.
b) Trọng tài viên không có bằng cấp về thiết kế và không có kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế. Bên có yêu cầu không cung cấp cho Toà án bằng chứng liên quan đến căn cứ này.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1062536t1cvn/chi-tiet-ban-an
21.1. Thông tin các bên:
a) Bên yêu cầu: Công ty Cổ phần ACC PCN
b) Bên liên quan: Công ty Cổ phần TT CR
21.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Bên yêu cầu cho rằng:
a) Thủ tục trọng tài trái với quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Cụ thể, việc ban hành phán quyết của Trọng tài không đưa ra căn cứ, không nêu bất kỳ quy định của pháp luật nên đã vi phạm Điều 1, khoản 2 Điều 4, điểm đ Điều 61 Luật Trọng tài thường mại;
b) Chứng cứ do Công ty CR cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo;
c) Phán quyết của Trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Cụ thể, phán quyết của Trọng tài bác bỏ yêu cầu Công ty CR phải quyết toán các chi phí và thiệt hại cho Công ty CN là trái với thỏa thuận và pháp luật. Đồng thời, Trọng tài nhận định số tiền thanh toán hợp đồng dựa trên đơn giá tạm tính nhân với diện tích sàn xây dựng là chưa đúng nội dung của hợp đồng và quy định pháp luật về quyết toán. Như vậy, phán quyết Trọng tài vi phạm khoản 1, điểm b, d, đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại.
21.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Toà án chấp nhận căn cứ Công ty CN đưa ra là pháp quyết Trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, quyết định huỷ phán quyết trọng tài với lẽ sau:
a) Hội đồng trọng tài cần tiến hành các thu tục thu thập chứng cứ để xét toàn diện yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng trọng tài giải quyết vượt quá yêu cầu của nguyên đơn.
b) Do đó, Phán quyết của Hội đồng trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật VN, căn cứ tại Điều 3.10, Điều 4.4 BLDS 2015, và vi phạm nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận tự nguyện của các đương sự căn cứ tại Điều 68.2.đ Luật Trọng tài thương mại.
21.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác:
Các lý do khác để hủy phán quyết Trọng tài không có cơ sở nên Tòa án bác bỏ.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1122548t1cvn/chi-tiet-ban-an
22.1. Thông tin các bên
a) Bên yêu cầu: Công ty Cổ phần Bất động sản F
b) Bên liên quan: Công ty TNHH C (Việt Nam)
22.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:
a) Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Hội đồng trọng tài đã vi phạm Điều 32 Luật Trọng tài thương mại và Điều 8 Quy tắc tố tụng Trọng tài ngày 01/03/2017 của VIAC (“Quy tắc“) về việc gửi thông báo và đơn khởi kiện. Công ty F không nhận được bất kỳ thông báo nào thể hiện Công ty C đang nộp hồ sơ khởi kiện tại VIAC do bưu phẩm không phát được đến địa chỉ của Công ty F (Công ty chuyển phát ghi nhận “Không tìm được người nhận tại địa chỉ trên bưu gửi”).
b) Hội đồng trọng tài vi phạm các quy định tại Khoản 3 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại và Khoản 3 Điều 12 Quy tắc, Chủ tịch Trung tâm trọng tài đã vi phạm khoản 1 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại về thời hạn chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn (Mục I.6 trang 2 Phán quyết).
c) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào để ra phán quyết vào là giả mạo theo điểm d, đ Khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại. Cụ thể, Biên bản bàn giao báo cáo được lập vào ngày 20/3/2020 là giả mạo.
d) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Công ty C có đăng ký ngành nghề định giá bất động sản thì chỉ được cung cấp dịch vụ thẩm định giá bất động sản sau khi có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Công ty C không có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá mà đã thực hiện dịch vụ định giá là vi phạm điều cấm của pháp luật.
e) Hội đồng trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng Trọng tài theo điểm b Khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại về xác định phiên họp cuối cùng.
22.3. Căn cứ mà tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
a) Toà án chấp nhận lý do: việc VIAC không giao bưu phẩm ngày 01/3/2021 đã không đảm bảo cho bị đơn thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 35 Luật Trọng tài thường mại đã vi phạm Điều 12 Luật Trọng tài thường mại, thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại Điều 68.2.b Luật Trọng tài thường mại.
b) Tòa án đồng ý với lập luận Công ty C đã thực hiện dịch vụ thẩm định giá bất động sản khi chưa có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Tòa án cho rằng Hội đồng trọng tài vi phạm tố tụng theo điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại. Phán quyết của Hội đồng trọng tài cho thấy Hội đồng trọng tài đã tin tưởng Công ty C thực hiện đúng chức năng, ngành nghề, dịch vụ mà Công ty C được phép cung cấp, trong khi Điều 45 Luật Trọng tài thương mại quy định Hội đồng trọng tài phải xác minh, làm rõ sự việc. Như vậy, Hội đồng trọng tài đã vi phạm tố tụng.
c) VIAC không vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại như Công ty F viện dẫn.
22.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác:
a) Với lý do “Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo”, do Công ty F không đưa ra chứng cứ chứng minh đấy là tài liệu giả mạo nên Tòa án bác bỏ
b) Với lý do “Chủ tịch Trung tâm trọng tài đã vi phạm khoản 1 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại về thời hạn chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn”: Tòa án cho rằng các lần tống đạt văn bản liên quan, VIAC đã thực hiện đúng khoản 2, 3 Điều 3 Quy tắc tố tụng Trọng tài; Điều 12 Luật trọng tài thương mại. Hơn nữa, trong suốt quá trình VIAC giải quyết Công ty F không phản đối về trọng tài nên việc đại diện Công ty F yêu cầu hủy phán quyết vì Hội đồng trọng tài vi phạm các quy định tại Khoản 3 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại là không có cơ sở.
c) Với lý do “Hội đồng trọng tài vi phạm về xác định phiên họp cuối cùng”: Công ty F không đưa ra chứng cứ chứng minh nên Tòa án không có cơ sở chấp nhận.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1061848t1cvn/chi-tiet-ban-an
23.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Du lịch quảng cáo khách sạn T (“Công ty T”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần Địa ốc P (“Công ty P”)
23.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Công ty T yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do:
a) Vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài: Hội đồng trọng tài giải quyết vấn đề nằm ngoài phạm vi yêu cầu khởi kiện; Hội đồng trọng tài không đưa người liên quan trực tiếp với nguyên đơn (ông Lê TT) vào tham gia tố tụng; Hội đồng trọng tài giải quyết vắng mặt Công ty T dù Công ty T đã đề nghị hoãn phiên họp với lý do chính đáng;
b) Phán quyết trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: Công ty P và người liên quan trực tiếp là ông Lê TT có những hành vi trái pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất.
23.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
a) Hội đồng trọng tài lẽ ra phải đình chỉ giải quyết các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (do nguyên đơn vắng mặt) nhưng Hội đồng trọng tài đã xét các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã vi phạm các điều luật viện dẫn.
b) Phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam:
Tại thời điểm ký Hợp đồng hợp tác đầu tư giữa Công ty T với Công ty P, hai bên thống nhất thỏa thuận Công ty T sẽ góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, quyền sử dụng đất mà Công ty T đưa vào để hợp tác đầu tư tại Hợp đồng trên đang thuộc quyền sử dụng của ông Lê TT và ông Tới vẫn chưa thực hiện xong các nghĩa vụ tài chính. Việc ông Tới chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính thì theo quy định của Luật Đất đai ông Tới không được phép thực hiện các quyền nêu trên, trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Ông Tới đã ký hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất với Công ty T (Hợp đồng số 04/HĐ ngày 15/8/2005 ) và lại ủy quyền cho Công ty T (Phụ lục hợp đồng số 05/HĐ ngày 20/5/2019) thực hiện các quyền của người sử dụng đất để ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 06/06/2019/HĐHT ngày 06/6/2019 với Công ty P góp vốn bằng quyền sử dụng đất là trái với quy định và vi phạm điều cấm của pháp luật. Khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định người sử dụng đất được thực hiện các quyền: “Chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận… Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện các quyền nêu trên” và Điều 123 Bộ luật dân sự quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật như sau: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái với đạo đức xã hội thì vô hiệu.Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.
Như vậy, phán quyết trọng tài đã trái với quy định và vi phạm điều cấm của pháp luật Việt Nam, vi phạm Khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018); Khoản 1 Điều 56 Luật Trọng tài Thương Mại 2010; Điểm c Khoản 1 Điều 29 và Khoản 1Điều 32 của Quy tắc trọng tài TRACENT.
23.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác bỏ
a) Tòa án nhận định việc không đưa người có liên quan trực tiếp với nguyên đơn là ông Lê TT vào tham gia tố tụng là có cơ sở do các bên không có yêu cầu.
b) Tòa án không xét đến việc Hội đồng trọng tài giải quyết vấn đề nằm ngoài phạm vi yêu cầu khởi kiện.
Link tham khảo bản án: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1027778t1cvn/chi-tiet-ban-an
24.1. Thông tin các bên
a) Người yêu cầu: Công ty TNHH BW (“Công ty BW”)
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH BG Việt Nam (“Công ty BG”)
24.2. Nội dung và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
a) Không có thỏa thuận trọng tài;
b) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
c) Các chứng cứ chưa được Hội đồng trọng tài kiểm tra, xác minh, có dấu hiệu ngụy tạo chứng cứ làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết.
24.3. Căn cứ mà Tòa án dựa vào để hủy phán quyết trọng tài
Những văn bản mà Hội đồng trọng tài viện dẫn để xác định các bên có thoả thuận trọng tài không được đại diện hợp pháp của cả hai công ty ký tên – đóng dấu, do đó, Phán quyết trọng tài thuộc trường hợp không có thoả thuận trọng tài, là một trong các trường hợp phán quyết bị huỷ theo Điều 68.2.a Luật Trọng tài thương mại.
24.4. Những căn cứ mà Người yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài nhưng bị Tòa án bác bỏ
Tòa án xác định không có thỏa thuận trọng tài, ngoài ra không xét đến các lý do khác mà Người yêu cầu đưa ra, bao gồm:
a) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
b) Các chứng cứ chưa được Hội đồng trọng tài kiểm tra, xác minh, có dấu hiệu ngụy tạo chứng cứ làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết.
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Nội dung bài viết trên không phải là ý kiến tư vấn pháp lý chính thức và cũng không thể hiện quan điểm của Asia Legal hay bất kỳ luật sư, chuyên viên tư vấn nào của Asia Legal. Bài viết này chỉ bao gồm các thông tin chung nhằm mục đích cập nhật các bản án mới Mặc dù vậy, Chúng tôi không thể đảm bảo những bản án này đã được cập nhật kịp thời và chính xác tại thời điểm đăng tải công khai. Asia Legal sẽ miễn trừ mọi trách nhiệm pháp lý phát sinh do thực hiện hoặc không thực hiện bất kỳ hành vi nào dựa trên cơ sở áp dụng nội dung của bài viết này.